用户:春卷柯南/笔记/笔记3

!!消歧义
中越关系-->自古以来中国和越南的往来、关系
台湾与越南关系-->历史上台湾/1949年后中华民国和越南的往来、关系
中华人民共和国—越南关系-->中华人民共和国与越南的往来、关系

  • 中越关系→中国和越南自古以来的的外交、文化、经济关系。
  • PRC和越南已于1950年1月18日建交,此外越南和ROC有经贸往来,两国政府互设经济办事处
  • 中国和越南同属汉字文化圈,两国的往来可以追溯到远古(?)/秦朝(?)

历史

越南传疑时代

  • 大越史记全书》→雒龙君(?)/安阳王传说
  • 广西学者→上述传说是根据中国传说穿凿附会→不可信

(宜参考《史记·南越列传》并加以补充)

秦代—南越国(赵朝)

汉代—魏晋南北朝

隋唐—五代十国

宋代—元代/明代

清代

辛亥革命—1949年

1949年—越战爆发前夕

越战时期

1976年—1991年

  • 越南统一后→黎笋向苏联“一边倒”。越南政府看到中美关系改善,即在...白皮书指责中国3次背叛/出卖越南,又批评中共搞扩张主义。

  • 1979→中越战争(内地又称“对越自卫反击战”),解放军一度进迫河内,后又撤兵(不宜花太多笔墨去写)
  • 1986→黎笋逝世,越共六大召开,革新开放阮文灵上台,中越关系改善→成都会晤

1991年至今

现况

政治关系

经贸往来

越南↔PRC

越南↔HK

文化交流

领土边界问题

  • 南海问题。越南和PRC都声称拥有西/南沙群岛(越南称为黄沙/长沙群岛)的主权。目前,PRC占领了西沙群岛全部岛屿和南沙群岛7座岛屿,越南占领了南沙群岛25座岛屿。(补述近几年中越南海角力的情况)
  • 北部湾问题→PRC和越南已经签约,解决北部湾海上划界问题
  • 中越两国之间的陆地边界已于2008年全部勘定

参见

参考资料

  • 张加祥、俞培玲. 越南. 重庆: 重庆出版社. 2004年. ISBN 7-5366-6631-4 (简体中文). 
    • 中越关系及两国人民的往来有著一段源远流长的历史。前越南民主共和国主席胡志明曾经说过,数千年来越南和中国的人血统相通、文化共同,在历史上素有兄弟之邦的称谓。
    • 在中国和越南人民的交往过程当中,两国人民互相学习对方的长处,去解决自己的缺点。
    • 据历史记载,中国的商人在前214年就已经来到象郡(今越南北部)进行商业活动,之后的中国人都只是到过越南的北部地区。到了唐朝以后中国人的足迹踏遍了越南的北部、中部和南部。越南在很久之前就已经引入了中国的传统农业技术,以及种植桑树、养蚕取丝的技术。
    • 宋朝的时候,有很多中国人在占城进行经贸活动。当时越南人喜欢使用中国的织绵,中国也引入了耐旱、产量高、容易生长的占城
    • 明代宦官郑和七度下西洋的航程中,曾经在占城停留过三次(分别是1405年第一次下西洋、1409年第四次下西洋和1430年第七次下西洋)。
    • 汉代和唐代的中国朝廷曾经派遣官员到现在属于越南的地区,他们把中国发达的文化带来越南。
  • Hayton, Bill. Vietnam: Rising Dragon. New Haven, [Conn.]: Yale University Press. 2010. ISBN 978-0-300-15203-6. 
    • 英国广播公司驻越南特派员比尔·海顿指出:中越关系是越南一种关键的战略关系,而遗忘和记忆则是当中必不可少的部分。越南与中国一波三折的关系可以追溯到越南从中国独立(海顿谓之再创造)。中越文化的共同点轻而易见;当你比较越南文化和中南半岛其他地方的文化,这种现象就更易看到了。

宋金时期

北宋—李朝

Ngay trong năm 1010 khi mới lên ngôi, 李太祖 đã bắt đầu sai sứ sang 宋朝. Sự kiện này mở đầu cho mối quan hệ bang giao trong 2 thế kỷ giữa nhà Lý với 中国的宋朝. Theo đánh giá của các sử gia, việc tích cực và chủ động quan hệ với phương Bắc nhằm gián tiếp khẳng định chính thống của nhà Lý và sự tồn tại của nước 大瞿越[1]

Dưới thời 李太祖李太宗, việc triều cống 宋朝 diễn ra đều đặn. Khi Đại Cồ Việt có vua mới, 宋朝 đều sai sứ sang phong vương. Trong vòng 46 năm thời 3 vị vua đầu tiên của nhà Lý, sử sách chỉ ghi nhận 3 lần 宋朝 sai sứ sang phong vương cho nhà Lý khi các vua mới lên ngôi, không có những hoạt động ngoại giao trong thời các vua cai trị như thời Đinh và Tiền Lê.

Sang thời 李圣宗, 1057年 nhà Lý sai sứ sang cống thú lạ cho 宋朝, bảo là con lân. Vua Tống nghe lời 司马光 (sợ không chắc là con lân thì các nước khác chê cười), liền thưởng cho sứ 大越 rồi sai mang con thú về. 李圣宗 giận 宋朝, cho là phản phúc, 1059年 bèn mang quân đánh vào Khâm châu để thị uy rồi rút về[2]. Sau lần hòa đàm 1060年, hoạt động ngoại giao được nối lại. 1067年, 宋朝 sai sứ sang gia phong 李圣宗 làm Nam Bình vương và Khai phủ Nghi đồng tam ty. Đó là lần đầu tiên 宋朝 cử sứ sang 大越 không vì việc thay ngôi vua của nhà Lý.

Ngoài mục đích báo tang, mừng vua mới, kết hiếu, các vua Lý còn sai sứ sang 宋朝 khi đánh thắng 占城, nhằm gián tiếp thể hiện cho 宋朝 biết Chiêm Thành là thuộc quốc của mình[3]. 宋朝 không thể hiện sự phản đối việc đó và giữ thái độ mềm mỏng. 1078年 khi sứ 大越 là Đào Tông Nguyên chạm trán sứ Chiêm Thành ở Biện Kinh, 宋朝 lo ngại, sai người bố trí thu xếp nơi ăn ở và thời gian và địa điểm vào chầu cố tỏ ra có sự phân biệt giữa hai nước nhằm xoa dịu phía 大越[4].

根据越南历史学家黄春罕的统计,李朝建国后63年,nhà Lý đã cử 23 đoàn sứ bộ sang 宋朝, trong đó 13 lần với mục đích kết hiếu và tạ ơn, 3 lần báo tin thắng trận khi vừa đánh Chiêm Thành, 7 lần là các mục đích khác (báo tang, mừng vua Tống lên ngôi, xin kinh Phật...)[5].

Sang thời 李仁宗, chỉ vài năm sau khi nhà Lý tiếp nhận chức Giao Chỉ quận vương của vua Tống, 宋越战争 nổ ra. Sau khi chiến tranh chấm dứt, việc ngoại giao giữa 2 nước tập trung vào vấn đề đất đai 宋朝和大越的边界。黎文盛 – thủ khoa đầu tiên của 大越 1075年 – được giao đi đàm phán với 宋朝, kết quả tới 1084年, phần lớn đất đai bị Tống chiếm đóng trong chiến tranh được trả lại cho 大越.

Cuối 1126年, đoàn sứ bộ 大越 sang 宋朝, nhưng chỉ đến 桂州(今广西壮族自治区桂林市) thì được quan chức tại đó đề nghị quay về, vì quân các trấn xung quanh đã được điều hết đi chống quân đang đánh 汴京(今河南省开封市), ngựa trạm và phu trạm không đủ phục vụ sứ đoàn 大越. Kết quả sứ đoàn mang lễ vật trở về nước[2].

南宋—李朝

自1127年起,宋朝 bị mất phương bắc về tay người Kim, phải chạy xuống 临安(今浙江省杭州市)đóng đô. Quan hệ ngoại giao giữa nhà Lý với Nam Tống vẫn được duy trì, thậm chí có lần năm 1156 thời Lý Anh Tông, cống phẩm cho 宋朝 có giá trị khá lớn. Lê Văn Siêu cho rằng đáng ra nhà Lý nên nhân thời cơ suy yếu của Nam Tống để thực hiện những cuộc bắc phạt như Lý Thường Kiệt từng làm thì có thể mở mang cương thổ phía bắc[6].

Đổi lại việc nhà Lý giữ quan hệ hữu hảo khi 宋朝 đã suy, 1164年 khi sứ thần 尹子胥越南语Doãn Tử Tư, Lý Bang Chính sang Lâm An, vua Tống Hiếu Tông tiếp đón và ban lệnh đổi tên “Giao Chỉ” thành “An Nam”, phong Lý Anh Tông làm “安南国王”[7][8][9]; nghĩa là trong quan hệ ngoại giao giữa Tống và Việt từ đó, 大越 không còn là một quận mà chính thức được coi là một nước phiên thuộc, mang tên An Nam[6][10].

自1206年起,do loạn lạc trong nước, việc sang sứ tiến cống 宋朝 không được thực hiện cho tới hết thời Lý (1225年)。

Các sử gia đã thống kê được trong thời gian tồn tại 216 năm, nhà Lý đã 57 lần sai sứ sang 宋朝[11]. Những lần cử sứ sang phương Bắc, nhà Lý đều chọn người có học thức, có tài ứng đối, biết làm thơ. Các sứ đoàn luôn thể hiện tinh thần tự tôn dân tộc, giữ thể diện quốc gia[12].

Việc triều cống 宋朝 chỉ nhằm đạt được sự công nhận bên ngoài của triều đình phương Bắc, giảm bớt xung đột biên giới, tạo ra môi trường ổn định để phát triển kinh tế - xã hội trong nước[13][14]. Bên trong, các vua Lý vẫn thể hiện sự tự tôn, độc lập tự chủ. Các vua Lý tuy nhận tước phong của 宋朝 nhưng vẫn có niên hiệu riêng, ấn tín riêng trong quá trình cai trị đất nước, không bao giờ dùng các chức vụ do 宋朝 phong (Giao Chỉ quận vương, Tĩnh Hải tiết độ sứ, Nam Bình vương…)[15][16].

金朝—李朝

金朝 khi đó đang rất hùng mạnh ở miền bắc Trung Hoa, uy hiếp nước 南宋 thường xuyên nhưng cũng rất tôn trọng 大越. Sau khi đã có hòa bình với Nam Tống, 1168年,金世宗 sai sứ giả vượt qua lãnh thổ Nam Tống đến nước 大越[17][18] và đó cũng là lần duy nhất nhà Kim có quan hệ ngoại giao với 大越[19].

Cùng với sứ nhà Kim, sứ Nam Tống cũng đến 大越 lúc đó. Vua 李英宗 sai các quan đón tiếp sứ giả cả 2 nước chu đáo nhưng không cho đoàn sứ giả hai nước gặp nhau[17][18][19].

参考文献

  1. ^ Nguyễn Quang Ngọc, sách đã dẫn, tr 377
  2. ^ 2.0 2.1 大越 sử ký toàn thư, Bản kỷ quyển 3
  3. ^ Kỷ yếu hội thảo khoa học "1000 năm vương triều Lý và kinh đô Thăng Long, tr 395
  4. ^ Kỷ yếu hội thảo khoa học "1000 năm vương triều Lý và kinh đô Thăng Long, tr 396
  5. ^ Hoàng Xuân Hãn, sách đã dẫn, tr 116-117
  6. ^ 6.0 6.1 Lê Văn Siêu, sách đã dẫn, tr 537
  7. ^ Việt sử tiêu án, Ngô Thì Sỹ, trang 61 bản dịch tiếng Việt dạng pdf.
  8. ^ Khâm định Việt sử thông giám cương mục, trang 173 bản dịch tiếng Việt dạng pdf.
  9. ^ 大越 sử ký, bản kỷ toàn thư, quyển IV Anh Tông Hoàng Đế.
  10. ^ Hoàng Xuân Hãn, sách đã dẫn, tr 119
  11. ^ Nguyễn Quang Ngọc, sách đã dẫn, tr 378-379
  12. ^ Nguyễn Quang Ngọc, sách đã dẫn, tr 379
  13. ^ Kỷ yếu hội thảo khoa học "1000 năm vương triều Lý và kinh đô Thăng Long, tr 390
  14. ^ Nguyễn Quang Ngọc, sách đã dẫn, tr 382
  15. ^ Kỷ yếu hội thảo khoa học "1000 năm vương triều Lý và kinh đô Thăng Long, tr 389
  16. ^ Nguyễn Quang Ngọc, sách đã dẫn, tr 380
  17. ^ 17.0 17.1 Ngô Thì Sĩ, sách đã dẫn, tr 350
  18. ^ 18.0 18.1 《钦定越史通鉴纲目》正编第5卷
  19. ^ 19.0 19.1 Viện Sử học, sách đã dẫn, tr 143

外部链接